Kháng sinh carbapenem là gì? Các công bố khoa học về Kháng sinh carbapenem

Carbapenem là nhóm kháng sinh β-lactam mạnh nhất, dùng để điều trị nhiễm khuẩn nặng nhờ khả năng kháng nhiều enzyme β-lactamase. Hoạt động bằng cách ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn, carbapenem ngăn cản sản xuất peptidoglycan, gây chết vi khuẩn. Các loại chính gồm Imipenem, Meropenem, Ertapenem, Doripenem, với công dụng chống nhiễm trùng nặng. Lạm dụng có thể gây kháng thuốc, đòi hỏi quản lý cẩn thận để bảo vệ hiệu quả điều trị. Kháng sinh cần được giữ lại cho các trường hợp nghiêm trọng để giảm thiểu kháng thuốc.

Giới thiệu về Kháng sinh Carbapenem

Carbapenem là một nhóm kháng sinh thuộc họ β-lactam, được coi là những kháng sinh mạnh nhất được sử dụng trong điều trị nhiễm khuẩn nặng. Carbapenem có khả năng kháng nhiều loại enzyme β-lactamase do nhiều vi khuẩn sản xuất, giúp chúng rất hiệu quả trong việc điều trị các nhiễm khuẩn chịu kháng thuốc.

Cơ chế hoạt động của Carbapenem

Giống như các họ kháng sinh β-lactam khác, carbapenem hoạt động bằng cách ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn. Chúng gắn kết vào các protein liên kết penicillin (PBP) trong thành tế bào vi khuẩn, từ đó ngăn cản quá trình sản xuất peptidoglycan, thành phần chính của vách tế bào vi khuẩn. Điều này dẫn đến vách tế bào trở nên yếu và dễ bị phá vỡ, cuối cùng làm chết vi khuẩn.

Các loại kháng sinh Carbapenem

Một số loại carbapenem thông dụng bao gồm:

  • Imipenem: Thường được sử dụng trong kết hợp với cilastatin để ngăn ngừa sự thủy phân của imipenem trong thận.
  • Meropenem: Được sử dụng rộng rãi trong điều trị nhiễm khuẩn nặng, đặc biệt là ở trẻ em và người lớn.
  • Ertapenem: Có thời gian tác dụng dài hơn và thích hợp cho việc dùng liều đơn mỗi ngày.
  • Doripenem: Sở hữu phổ tác dụng rộng và thường được sử dụng để điều trị nhiễm trùng ổ bụng và viêm phổi bệnh viện.

Công dụng của Kháng sinh Carbapenem

Carbapenem được sử dụng để điều trị nhiều loại nhiễm khuẩn, bao gồm:

  • Nhiễm trùng ổ bụng nghiêm trọng.
  • Viêm phổi bệnh viện.
  • Nhiễm trùng máu.
  • Nhiễm khuẩn da và mô mềm.
  • Nhiễm khuẩn đường tiết niệu khó chữa trị.

Vì khả năng chống lại nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc, carbapenem thường được giữ lại cho các trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng và đe dọa tính mạng để hạn chế sự phát triển của kháng thuốc.

Kháng Carbapenem và Thách thức

Việc lạm dụng và sử dụng không đúng cách kháng sinh carbapenem dẫn đến sự phát triển của một số chủng vi khuẩn kháng lại nhóm kháng sinh này, như vi khuẩn sinh ra enzyme carbapenemase. Điều này đã trở thành mối đe dọa lớn đối với sức khỏe công cộng và đòi hỏi sự quản lý cẩn thận trong việc sử dụng kháng sinh.

Kết luận

Kháng sinh carbapenem đóng vai trò quan trọng trong điều trị các nhiễm khuẩn nặng và kháng thuốc. Tuy nhiên, việc sử dụng phải được quản lý cẩn trọng để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc, bảo vệ hiệu quả của nhóm kháng sinh này cho tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kháng sinh carbapenem":

Đặc điểm của Gen Metallo-β-Lactamase Mới, bla NDM-1, và Gen Erythromycin Esterase Mới trên Cấu Trúc Di Truyền Độc Đáo trong Chuỗi Loại 14 của Klebsiella pneumoniae từ Ấn Độ Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 53 Số 12 - Trang 5046-5054 - 2009
Một bệnh nhân gốc Ấn Độ ở Thụy Điển đã đi đến New Delhi, Ấn Độ và nhiễm trùng đường tiết niệu do một chủng Klebsiella pneumoniae kháng carbapenem gây ra, thuộc loại chuỗi số 14. Chủng Klebsiella pneumoniae 05-506 được phát hiện mang một loại metallo-β-lactamase (MBL) nhưng âm tính với các gene MBL đã biết trước đó. Các thư viện gene và sự nhân bản của các integron lớp 1 hé lộ ba vùng kháng: vùng thứ nhất chứa bla CMY-4 nằm cạnh IS EcP1blc. Vùng thứ hai rộng 4.8 kb chứa một integron lớp 1 phức tạp với các cassette gene arr-2, một gene esterase erythromycin mới; ereC; aadA1; và cmlA7. Một phần tử IS CR1 hoàn chỉnh được phát hiện nằm phía dưới gene qac/sul. Vùng thứ ba gồm một gene MBL mới, được ghi nhận là bla NDM-1, nằm cạnh một bên gene DNA của K. pneumoniae và một phần tử IS 26 bị cắt cục khác. Hai vùng cuối này nằm gần nhau và cả ba vùng đều được tìm thấy trong một vùng 180-kb dễ truyền tài đến các chủng tiếp nhận và mang lại khả năng kháng tất cả các loại kháng sinh trừ flooroquino và colistin. NDM-1 có ít giống nhau với các MBL khác, MBL gần giống nhất là VIM-1/VIM-2, chỉ có 32.4% mức độ tương đồng. Ngoài việc có các dư lượng độc đáo gần vị trí hoạt động, NDM-1 còn có một đoạn chèn thêm giữa vị trí 162 và 166 mà không có trong các MBL khác. NDM-1 có khối lượng phân tử 28 kDa, tồn tại dạng monomer và có thể thủy phân các β-lactam, trừ aztreonam. So với VIM-2, NDM-1 gắn chặt hơn với hầu hết các cephalosporin, đặc biệt là cefuroxime, cefotaxime, và cephalothin (cefalotin), cùng với các penicillin. NDM-1 không gắn chặt với các carbapenem như IMP-1 hoặc VIM-2 và thủy phân các carbapenem với tốc độ tương tự VIM-2. Ngoài K. pneumoniae 05-506, bla NDM-1 còn được phát hiện trên plasmid 140-kb trong một chủng Escherichia coli được tách ra từ phân của bệnh nhân, chỉ ra khả năng liên kết trong cơ thể sống. Khả năng kháng rộng rãi trên các plasmid này là một phát triển đáng lo ngại đối với Ấn Độ, nơi đã có mức kháng sinh cao.
#kháng sinh #Klebsiella pneumoniae #gene NDM-1 #metallo-β-lactamase #erythromycin esterase #kháng carbapenem #integron class 1 #Ấn Độ #plasmid
Carbapenems: Quá Khứ, Hiện Tại, và Tương Lai Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 55 Số 11 - Trang 4943-4960 - 2011
TÓM TẮT

Trong bài tổng quan này, chúng tôi tóm tắt “trạng thái nghệ thuật” hiện tại của kháng sinh carbapenem và vai trò của chúng trong kho vũ khí kháng khuẩn của chúng ta. Trong số các β-lactam hiện có, carbapenem là độc nhất vì chúng tương đối bền vững trước sự thủy phân của hầu hết các β-lactamase, trong một số trường hợp hoạt động như “cơ chất chậm” hoặc chất ức chế β-lactamase, và vẫn nhắm mục tiêu các protein liên kết penicillin. Tính năng “gia tăng giá trị” này trong việc ức chế β-lactamase là lý do chính cho sự mở rộng của nhóm β-lactam này. Chúng tôi mô tả phát hiện ban đầu và sự phát triển của dòng họ carbapenem của các β-lactam. Trong số các carbapenem sớm được đánh giá, thienamycin đã chứng minh hoạt tính kháng khuẩn lớn nhất và trở thành hợp chất gốc cho tất cả các carbapenem tiếp theo. Cho đến nay, có hơn 80 hợp chất với các đặc tính kháng khuẩn cải thiện chủ yếu, so với thienamycin, được mô tả trong tài liệu. Chúng tôi cũng nhấn mạnh các tính năng quan trọng của các carbapenem hiện đang được sử dụng lâm sàng: imipenem-cilastatin, meropenem, ertapenem, doripenem, panipenem-betamipron, và biapenem. Cuối cùng, chúng tôi nhấn mạnh một số thách thức lớn và kêu gọi các nhà hóa học dược liệu tiếp tục phát triển các hợp chất linh hoạt và mạnh mẽ này, vì chúng đã phục vụ chúng ta tốt trong hơn 3 thập kỷ qua.

#carbapenem #kháng sinh #β-lactamase #kháng khuẩn #chlện tiêu hóa #imipenem #meropenem #ertapenem #doripenem #phát triển thuốc
Xác định Acinetobacter baumannii bằng cách phát hiện gen enzyme phân giải carbapenem bla OXA-51-like vốn có của loài này Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 44 Số 8 - Trang 2974-2976 - 2006
TÓM TẮT

Gen bla OXA-51-like được tìm kiếm trong các mẫu lâm sàng của các loài Acinetobacter bằng kỹ thuật PCR đa kênh, đồng thời phát hiện cả bla OXA-23-like và các gen integrase lớp 1. Tất cả các mẫu cho băng đặc hiệu của bla OXA-51-like đều được xác định là A. baumannii . Gen này được phát hiện trên tất cả 141 mẫu của A. baumannii nhưng không có ở 22 loài Acinetobacter khác.

#Acinetobacter baumannii #OXA-51-like #PCR đa kênh #integrase lớp 1 #ánh hưởng điều trị kháng sinh
Nhiễm khuẩn máu do Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất Carbapenemase: Giảm tỷ lệ tử vong bằng các phác đồ kháng sinh kết hợp và vai trò của Carbapenems Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 58 Số 4 - Trang 2322-2328 - 2014
TÓM TẮT

Các chủng Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất carbapenemase (CP-Kp) hiện nằm trong số những tác nhân gây bệnh trong bệnh viện quan trọng nhất. Một nghiên cứu quan sát đã được tiến hành từ năm 2009 đến 2010 tại hai bệnh viện nằm trong khu vực có tỷ lệ mắc cao (Athens, Hy Lạp). Mục đích là (i) đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp, (ii) xác định yếu tố dự báo tử vong, và (iii) đánh giá các phác đồ kháng sinh khác nhau được sử dụng. Tổng cộng 205 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp đã được xác định: 163 (79,5%) bị nhiễm loại KPC hoặc KPC và VIM, và 42 bị nhiễm loại sản xuất VIM. Trong điều trị quyết định, 103 bệnh nhân nhận được liệu pháp kết hợp (hai hoặc nhiều thuốc có hoạt tính), 72 nhận được liệu pháp đơn (một thuốc có hoạt tính), và 12 nhận được liệu pháp không có thuốc hoạt tính. Còn lại 18 bệnh nhân đã tử vong trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát nhiễm khuẩn máu. Tỷ lệ tử vong mọi nguyên nhân sau 28 ngày là 40%. Tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp đơn so với những người điều trị bằng liệu pháp kết hợp (44,4% so với 27,2%; P = 0,018). Tỷ lệ tử vong thấp nhất (19,3%) được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng các phác đồ kết hợp có chứa carbapenem. Trong mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox, bệnh cuối cùng tử vong (tỷ lệ nguy cơ [HR], 3,25; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,51 đến 7,03; P = 0,003), sự hiện diện của các bệnh nền tử vong nhanh (HR, 4,20; 95% CI, 2,19 đến 8,08; P < 0,001), và sốc nhiễm trùng (HR, 2,15; 95% CI, 1,16 đến 3,96; P = 0,015) là những yếu tố dự báo độc lập liên quan đến tử vong. Liệu pháp kết hợp có liên quan mạnh mẽ đến sống sót (HR tử vong cho liệu pháp đơn so với kết hợp, 2,08; 95% CI, 1,23 đến 3,51; P = 0,006), chủ yếu do hiệu quả của các phác đồ có chứa carbapenem.

#Klebsiella pneumoniae #carbapenemase #tỷ lệ tử vong #nhiễm khuẩn máu #phác đồ kháng sinh #liệu pháp kết hợp #vật chủ bệnh viện #carbapenem.
Tình hình kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa phân lập được trên bệnh phẩm tại Viện Pasteur, TP Hồ Chí Minh
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tỉ lệ kháng kháng sinh và xác định khả năng sản xuất Carbapenemase từ 28 chủng P. aeruginosa phân lập được từ các mẫu bệnh phẩm tại Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh. Kết quả: P. aeruginosa kháng lại tất cả các loại kháng sinh với tỉ lệ kháng khá cao (trên 40%) , chỉ một tỉ lệ nhỏ kháng lại CS (10,7%), đặc biệt một tỉ lệ kháng khá cao với IPM (46,2%) và thử nghiệm Hodge test với 17,9% số chủng có khả năng sản xuất Carbapenemase. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#kháng kháng sinh #Pseudomonas aeruginosa #Carbapenemase
SỰ LƯU HÀNH CÁC CHỦNG ACINETOBACTER BAUMANNII KHÁNG CARBAPENEM TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Tình hình kháng kháng sinh của Acinetobacter baumannii tại bệnh viện gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đặc biệt là kháng carbapenem. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ kháng kháng sinh, tỉ lệ mẫu bệnh phẩm, bệnh nhiễm khuẩn A. baumanii tại các khoa lâm sàng trong bệnh viện. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang khảo sát 76 trường hợp nhiễm A. baumannii phân lập, được thực hiện kháng sinh đồ được tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ tháng 5/2020 đến tháng 11/2020. Kết quả: Tỉ lệ kháng imipenem và meropenem là 93,4%, đề kháng hầu hết với các loại kháng sinh nghiên cứu khác với tỉ lệ trên 80%. Phân bố các khoa nhiễm khuẩn A. baumannii: Hồi sức tích cực với 54,0%. Nhiễm trùng đường hô hấp dưới (71,1%), nhiễm trùng máu (36,8%), nhiễm trùng da và mô mềm (23,2%). Bệnh phẩm nhiều nhất với Đàm, dịch phế quản (64,5%). Can thiệp hô hấp (75,0%), can thiệp tĩnh mạch (36,5%). Kết luận: Tỉ lệ kháng carbapenem 93,4% (imipenem and meropenem) phần lớn ở bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp dưới.
#Acinetobacter baumannii #carbapenem #đề kháng kháng sinh
Một số đặc điểm kháng kháng sinh và yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện do Klebsiella pneumoniae kháng carbapenem tại Khoa Hồi sức tích cực - Bệnh viện Bạch Mai (7/2019 - 8/2020)
Tóm tắt Mục tiêu: Mô tả đặc điểm kháng kháng sinh và yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae kháng carbapenem (CRKP). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, so sánh đối chứng sử dụng phân tích hồi quy logistic trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae từ tháng 7/2019 đến tháng 8/2020. Kết quả: Các chủng K. pneumoniae phân lập được kháng hầu hết với các nhóm kháng sinh, trong đó carbapenem là 78,3 - 80%. Các chủng này còn nhạy cảm tương đối tốt với fosfomycin (60,0%), amikacin (75,0%), colistin (86,7%). So sánh tỷ lệ kháng của nhóm CRKP đều cao hơn nhóm K. pneumoniae còn nhạy với carbapenem, và có ý nghĩa ở các kháng sinh nhóm cephalosporin, quinolone. Các yếu tố nguy cơ nhiễm CRKP bệnh viện: Tiền sử dùng carbapenem, colistin 30 ngày trước, đặt nội khí quản, thở máy xâm nhập, tiền sử phẫu thuật 30 ngày trước, dinh dưỡng tĩnh mạch, đặt sonde dạ dày và điểm APACHE II ≥ 15 khi nhập viện. Tiền sử dùng carbapenem trước đó 30 ngày là yếu tố nguy cơ độc lập cao nhất làm tăng khả năng nhiễm CRKP. Kết luận: Tỷ lệ K. pneumoniae kháng carbapenem là 80%. Tiền sử dùng carbapenem 30 ngày trước đó là yếu tố nguy cơ cao nhất làm gia tăng khả năng nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae kháng carbapenem. Từ khóa: K. pneumoniae, K. pneumoniae kháng carbapenem, yếu tố nguy cơ, nhiễm trùng bệnh viện.  
#K. pneumoniae #K. pneumoniae kháng carbapenem #yếu tố nguy cơ #nhiễm trùng bệnh viện
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH ĐA KHÁNG KHÁNG SINH CỦA KLEBSIELLA PNEUMONIAE SINH ESBL, CARBAPENEMASE TRÊN BỆNH PHẨM PHÂN LẬP ĐƯỢC TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Tình hình đa kháng kháng sinh và tỷ lệ sinh men β lactamase phổ rộng (ESBL), sinh carbapenemase của Klebsiella pneumoniae là vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: (1). Xác định tỷ lệ Klebsiella pneumoniae sinh men ESBL, carbapenemase. (2). Khảo sát đặc điểm Klebsiella pneumoniae đa kháng kháng sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 399 chủng vi khuẩn Klebsiella pneumoniae, thu thập từ nuôi cấy mẫu bệnh phẩm của các bệnh nhân nhiễm trùng tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 06/2021 đến tháng 11/2021. Hồ sơ bệnh án được chẩn đoán do Klebsiella pneumoniae. Xác định sinh ESBL bằng phương pháp đĩa kết hợp và phương pháp mCIM để xác định Klebsiella pneumoniae sinh men carbapenemase. Kết quả: Trong số 399 bệnh phẩm được phân lập, tỷ lệ Klebsiella pneumoniae sinh men ESBL là 76,7%; sinh men carbapenemase 13,8%; sinh đồng thời ESBL và carbapenemase là 13,0%. Tỷ lệ Klebsiella pneumoniae đa kháng là 94,0%. Klebsiella pneumoniae kháng cao với kháng sinh nhóm sinh Beta-lactam là 100%; kế đến nhóm Quinolon là 96% và chưa ghi nhận kháng nhóm Polymycin. Kết luận: Tỷ lệ Klebsiella pneumoniae sinh ESBL là 76,7%, sinh carbapenemase là 13,8%, sinh đồng thời ESBL và carbapenemase là 13%. Tỷ lệ Klebsiella pneumoniae đa kháng kháng sinh là 94,0%.
#Klebsiella pneumoniae #ESBL #Carbapenemase
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN KHÁNG SINH NHÓM CARBAPENEM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH PHÚ THỌ NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Kháng sinh nhóm carbapenem là nhóm kháng sinh có hoạt phổ rộng nhất hiện nay, có tác dụng trên cả các chủng vi khuẩn đã đề kháng với các kháng sinh nhóm β-lactam khác (vi khuẩn gram âm sinh enzym beta-lactamase phổ rộng (ESBL)).  Nghiên cứu hồi cứu mô tả thực trạng kê đơn kháng sinh nhóm carbapenem dựa trên dữ liệu thu được từ 520 bệnh án của bệnh nhân điều trị từ tháng 01/2021 đến tháng 06/2021 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ. Thực trạng tiêu thụ thuốc trong thời gian này cũng được phân tích trong dữ liệu tổng thể của cả giai đoạn từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ tiêu thụ của kháng sinh carbapenem thông qua số liều DDD/100 ngày điều trị trong giai đoạn từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2021 có xu hướng tăng (tau=0.867, p<0.05). Trong 520 bệnh án nghiên cứu, carbapenem được sử dụng chủ yếu dưới dạng phác đồ kháng sinh kinh nghiệm (89,6%), trong đó phác đồ điều trị ban đầu phù hợp với khuyến cáo chiếm tỷ lệ 65,2%, phác đồ điều trị thay thế phù hợp với khuyến cáo chiếm tỷ lệ 88,3%. Trên nhóm bệnh nhân không cần hiệu chỉnh liều carbapenem theo chức năng thận, có 60,0% bệnh nhân sử dụng imipenem và 22,5% bệnh nhân sử dụng meropenem theo liều không phù hợp với khuyến cáo. Tương tự, đối với những bệnh nhân cần điều chỉnh liều theo chức năng thận, chỉ có 54,1% bệnh nhân sử dụng imipenem và 35,3% bệnh nhân sử dụng meropenem có liều phù hợp với khuyến cáo. Nghiên cứu đề xuất áp dụng một Chương trình quản lý sử dụng kháng sinh nhóm carbapenem chi tiết tại bệnh viện, trong đó cần quy định rõ chỉ định được phép của carbapenem trong phác đồ kinh nghiệm (phác đồ điều trị ban đầu, phác đồ thay thế) và hướng dẫn về liều dùng dựa trên cá thể hóa điều trị, áp dụng chiến lược tối ưu hóa chế độ liều dựa trên nguyên tắc dược động học/dược lực học (PK/PD).
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CỦA HOẠT ĐỘNG DƯỢC LÂM SÀNG TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÓM KHÁNG SINH CARBAPENEM TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC - CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH THUẬN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát tình hình đề kháng kháng sinh, tình hình sử dụng carbapenem và đánh giá bước đầu can thiệp của dược lâm sàng trong việc sử dụng carbapenem tại khoa Hồi sức tích cực - chống độc Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả, so sánh hai giai đoạn gồm giai đoạn 1 (trước can thiệp) từ 07/2020 đến 12/2020 và giai đoạn 2 (can thiệp) từ 01/2021 đến 07/2021. Tính hợp lý của kháng sinh được đánh giá dựa vào Hướng dẫn sử dụng kháng sinh Bộ Y Tế 2015; Hướng dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận 2017 và The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020. Kết quả: Ở cả hai giai đoạn, vi khuẩn Gram âm chiếm đa số và có tỷ lệ đề kháng carbapenem cao. Imipenem là kháng sinh trong nhóm carbapenem được chỉ định nhiều nhất. Với can thiệp của dược lâm sàng, tính hợp lý chung về sử dụng kháng sinh tăng lên 70,5%, tối ưu hóa về liều được chấp thuận chiếm 88,1% và tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh chiếm 48,9%. Kết luận: Sau khi có sự can thiệp của dược sĩ lâm sàng, tính hợp lý trong việc sử dụng kháng sinh được cải thiện.
#Carbapenem #đề kháng kháng sinh #hồi sức tích cực #can thiệp dược lâm sàng
Tổng số: 29   
  • 1
  • 2
  • 3